Trẻ em yêu thích cái gì, tò mò muốn
biết cái gì, thì sẽ học cái đó rất nhanh. Muốn cho một bé học giỏi toán, thì điểm
quan trọng đầu tiên là phải làm cho bé yêu toán. Chúng ta không thể bắt ép ai
đó yêu toán, mà chỉ có thể gợi mở và khuyến khích.
Hiện tại phần lớn trẻ em ở Việt
Nam chỉ được học toán qua sách giáo khoa lý thuyết và bài tập, chứ không biết đến
các thể loại sách khác về toán rất cần thiết cho việc bổ sung kiến thức và gợi
mở tình yêu toán học. Chúng ta cần tăng cường cho trẻ em tiếp xúc với các sách
hay thuộc các thể loại khác, ví dụ như: sách truyện có nội dung toán học (đọc về
toán mà ly kỳ hấp dẫn như truyện cổ tích), sách về toán học trong cuộc sống và
trong tự nhiên (để trẻ em thấy các khái niệm toán học sinh động và hữu ích ra
sao), sách về các trò chơi toán học (còn gì hay hơn là chơi vui mà lại là học
hiệu quả), sách về lịch sử toán học (biết về lịch sử giúp chúng ta hiểu
rõ hơn mọi thứ), đố vui giải trí toán học (đố vui cũng là một cách luyện não hiệu
quả), v.v. Những sách như thế ở Việt Nam cũng đã có, nhưng còn tương đối hiếm.
Những sách hay, dễ đọc mà rơi vào tay tay trẻ em thì chẳng cần thúc ép nài nỉ
trẻ em cũng sẽ say sưa đọc, và từ đó mà yêu toán, giỏi toán.
![]() |
Trẻ em và việc dạy - học toán cho trẻ |
Rào cản tâm lý là trở ngại lớn nhất
đối với trẻ em (và cả người lớn) trong việc học toán (cũng như học các thứ
khác). Nếu đứa trẻ chán nản hoặc sợ hãi với môn toán, thấy khổ sở khi học toán,
thì tất nhiên học sẽ khó vào. Khi trẻ mắc phải những tâm lý tiêu cực đó, thì
không phải là do “nó dốt, nó hư”, mà là do hoàn cảnh tạo ra như vậy, và một phần
lớn lỗi trong chuyện này thuộc về người lớn (thầy cô giáo hoặc cha mẹ). Một số
lý do phổ biến khiến cho trẻ trở nên sợ toán, chán toán là:
- Trẻ bị chế diễu, sỉ nhục (“sao
mày ngu thế, sao điểm mày thấp thế”), hay thậm chí đánh đập khi không làm được
bài.
- Giáo viên dạy chán và sách cũng
chán, quá giáo điều, hình thức, khô khan, giải thích các thứ không rõ ràng, và
cũng không nối kết được toán học với các thứ khác, khiến cho toán học trở nên
khó hiểu và vô nghĩa, chẳng biết học để làm gì.
- Trẻ bị ép học quá nhiều đến mức
mụ mẫm, thiếu ngủ và thiếu các hoạt động giải trí để có thể phát triển cân bằng.
Cần giải tỏa cho trẻ em về tâm
lý, xóa bỏ được nỗi sợ toán, nỗi ghét toán, nỗi sợ bị điểm kém, chuyển được giờ
học toán từ “địa ngục” sang thành “sự sung sướng” thì học sẽ nhanh vào. Chẳng hạn,
chúng ta không nên sỉ nhục trẻ khi nó bị điểm kém, mà ngược lại nên tỏ ra độ lượng,
làm cho nó hiểu rằng ai cũng có thể có lúc bị điểm kém, điều đó không phải là
bi kịch.
Chúng ta không nên ép trẻ học quá
nhiều (bắt đi học thêm quá nhiều, giao quá nhiều bài tập bắt buộc về nhà,
v.v.), và đặc biệt không nên làm gì ảnh hưởng đến giấc ngủ của trẻ. Giấc ngủ
đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc hình thành trí nhớ dài hạn, kết nối
các kiến thức đã có lại với nhau, làm cho con người thông minh lên. Ngoài thời
gian ngủ, trẻ con cần có thời gian chơi, thời gian tự học và tự đọc sách, học một
cách “thòm thèm” chứ không học kiểu nhồi nhét.
Chương trình dạy toán cần được cải
tiến theo hướng: dễ hiểu hơn (không có nghĩa là nhảm nhí hóa, bỏ bớt nhiều khái
niệm quan trọng ra khỏi chương trình, mà là giải thích các khái niệm một cách dễ
hiểu hơn), tự nhiên hơn (không có khái niệm toán học quan trọng nào là “từ trên
trời rơi xuống”, nhưng có những sách trình bày các khái niệm cứ như từ trên trời
rơi xuống), sinh động hơn, gắn liền với thực tế và với các môn học khác hơn,
v.v.
Einstein có nói đại ý: “Nếu bạn
không thể giải thích được một khái niệm gì đó cho đứa trẻ 6 tuổi hiểu được, thì
có nghĩa là bạn chưa hiểu vững khái niệm đó”. Mọi ý tưởng quan trọng trong toán
học thực ra đều rất trong sáng, và không đến mức khó như mọi người sợ. Giải
thích chúng một cách trong sáng đúng bản chất (thay vì hình thức và giáo điều)
thì trẻ em cũng hiểu được nhiều khái niệm của toán học hiện đại.
Einstein có nói “dạy học qua các
ví dụ không phải là một phương pháp để dạy, mà là phương pháp duy nhất để dạy”.
Còn nói theo nhà toán học V.I. Arnold thì “một định nghĩa tốt là 5 ví dụ
tốt”. Ví dụ như tập các phép quay cái rubik tạo thành một nhóm, hay tập
các phép đối xứng của hình tam giác đều cũng là một nhóm, v.v. Một nhóm (theo
nghĩa toán học) chẳng qua là một tập các phép biến đổi (đối xứng) của một cái
gì đó (và có thể kết hợp các phép biến đổi với nhau hoặc đảo nghịch lại một
phép biến đổi). Giải thích qua các ví dụ như thế thì trẻ em cũng có thể hiểu
đúng bản chất nhóm là gì.
Học toán không đơn thuần là học
làm tính, mà còn là học cách suy luận, suy nghĩ logic, chiến lược, mô hình
hóa các vấn đề, phân biệt phải trái, v.v.
Con người sinh ra bình đẳng với
nhau, nhưng không giống nhau về năng khiếu bẩm sinh và môi trường phát triển.
Khả năng về toán học của các trẻ em khác nhau vì vậy cũng khác nhau. Vì vậy
không thể có một chương trình chung nào thích hợp với toàn bộ trẻ em cùng lứa
tuổi. Một chương trình chung có thể thích hợp với đa số các trẻ em, nhưng bên cạnh
đó cần các chương trình đặc biệt dành cho các trẻ em có năng khiếu đặc biệt hoặc
ngược lại có những khó khăn đặc biệt khi tiếp cận môn toán (hay những môn học
khác). Nếu trẻ em có năng khiếu đặc biệt về toán mà cứ phải học theo cùng tốc độ
với các trẻ em có học lực trung bình thì ắt sẽ dẫn đến sự buồn chán và nguy cơ
thui chột năng khiếu bẩm sinh.
tiasang
0 nhận xét: